Alexander
L. Vuving
Liem
Nguyen lược dịch theo East Asia Forum
Trong
năm 2016, Đảng Cộng sản cầm quyền của Việt Nam (ĐCSVN) sẽ triệu tập Đại hội lần
thứ 12 để chọn các nhà lãnh đạo mới cho đảng và cho đất nước. Với các nhà lãnh
đạo mới sẽ có các chính sách mới, thế nhưng những người hy vọng cho cái gọi là “đổi
mới lần 2” nhiều khả năng sẽ bị thất vọng. Mọi sự thay đổi nếu có sẽ không đủ để
biến Việt Nam thành một con hổ mới ở châu Á.
Nghịch
lý là, cái được gọi là thời kỳ đổi mới ở Việt Nam thực ra không phải là giai đoạn
mà trong đó việc cải cách là điều ưu tiên. Sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Đông
Âu vào cuối những năm 1980 là một kinh nghiệm đau thương, và nó định hình nhãn
quang chiến lược cho các nhà lãnh đạo Việt Nam trong nhiều thập niên sau đó. Kết
quả là, những nét chủ đạo trong công cuộc đổi mới thực ra không phải nhằm để cải
cách mà mục
đích cao nhất là ổn định.
Mỗi
khi bị bắt buộc phải lựa chọn giữa thay đổi hay giữ nguyên, các nhà lãnh đạo Việt
Nam luôn chọn “giữ nguyên nhưng cộng thêm”, nhưng việc “cộng thêm” sẽ luôn bị giới
hạn ở mức tối thiểu. Mặc dù các cam kết cải cách luôn được nhắc tới mỗi khi Đảng
Cộng sản triệu tập Đại hội toàn quốc, đảng luôn chọn một người bảo thủ để giữ
chức Tổng bí thư và cũng là vị trí lãnh đạo cao nhất của đất nước.
Chế
độ cộng sản ở Việt Nam đã thực hành một cách có hệ thống các biện pháp nhằm duy
trì quyền lực. Các biện pháp này bao gồm việc cho phép quân đội, an ninh, và cảnh
sát có các đặc quyền về tài chính và hoạt động. Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản
cũng luôn tìm
kiếm một liên minh chiến lược với Trung Quốc để đảm bảo một sự hỗ trợ từ bên
ngoài cho chế độ.
Một
chính sách nữa là họ luôn đưa các “hạt giống đỏ" vào các vị trí lãnh đạo.
Những trường hợp cụ thể, như con của cựu tổng bí thư Nông Đức Mạnh và con của
Thủ tướng đương thời Nguyễn Tấn Dũng hiện là những thành viên trẻ bất thường của
Ủy ban Trung ương Đảng, là những chỉ dấu cho một hiện tượng chung đang xảy ra ở
tất cả mọi cấp bậc.
Mặc
dù những điều này dẫn đến sự cản trở mang tính cơ cấu cho sự thay đổi, ba thập
kỷ “đổi mới” cũng đã tạo ra một môi trường đòi hỏi phải có sự thay đổi. Tâm lý người
dân trong nước rõ ràng là họ thích một hệ thống thị trường tự do và một liên
minh an ninh với phương Tây. Một cuộc khảo sát do Trung tâm Nghiên cứu Pew tiến
hành vào năm 2014 cho thấy 95% dân số Việt Nam ủng
hộ thị trường tự do. Trong một cuộc khảo
sát khác của Pew cũng vào năm 2014, khi được hỏi quốc gia nào sẽ là đồng
minh đáng tin cậy nhất của Việt Nam trong tương lai, 30% số người được hỏi nói
đó là Hoa Kỳ, 25% tin vào Nga và 15% nghĩ đó là Nhật.
Thập
niên vừa qua cũng cho thấy sự trưởng thành của một xã hội dân sự mặc dù Luật Lập
Hội, một thiết chế để điều tiết các nhóm xã hội dân sự, vẫn còn chưa được ra đời
sau 23 năm soạn thảo. Nhờ có các phương tiện truyền thông xã hội, mọi người giờ
đây có thể thiết lập mạng lưới xã hội, chia sẻ ý tưởng, có tiếng nói của mình,
và phối hợp hành động mà chính quyền khó có thể kiểm soát. Bằng chứng cho việc
này là các cuộc biểu tình gần đây chống lại một kế hoạch chặt cây của chính quyền
Hà Nội, được thúc đẩy bởi nhà báo Trần
Đăng Tuấn. “Sức mạnh blogger" ngày càng lớn mạnh là tiếng nói, mà nếu chính
quyền cố tình làm ngơ, họ sẽ phải trả giá.
Đan
xen một phần với sự nổi lên của xã hội dân sự là sự trở lại của chủ nghĩa yêu
nước, mà trong hình thức hiện nay là
xu hướng chống Trung Quốc và thân phương Tây. Bị ức chế trong suốt các năm 1990
và 2000, tình cảm dân tộc này đã được hồi sinh bởi những xung đột với Trung Quốc
ở Biển Đông. Thời gian gần đây, chính tinh thần dân tộc này đã gây áp lực lớn buộc
chính quyền phải tách ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc.
Áp
lực phải thay đổi cũng đến từ nền kinh tế. Mặc dù tốc độ phát triển ở khoảng
5-6% một năm, nền kinh tế Việt Nam trì trệ về mặt chất lượng. Như một chỉ số về
cải cách thể chế và đổi mới công nghệ, năng suất tổng hợp (total factor
productivity - TFP) chỉ
đóng góp 6,4% vào tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2007-2012.
Với
áp lực phải thay đổi ngày càng tăng, các nhà lãnh đạo buộc phải hành động.
Nhưng thay vì tập trung cải cách sâu rộng như những gì mà giới trí thức liên tục
kêu gọi, những kẻ cầm quyền ở Việt Nam đã chọn một con đường khác.
Sự
pha trộn giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ đổi mới đã dẫn
tới vấn nạn rent-seeking,
tức việc sử dụng quyền lực để kiếm tiền và dùng tiền để mua quyền lực. Đến năm
2006, những kẻ trục lợi (nhóm lợi ích / rent-seekers) như thế đã trở thành nhóm
nắm quyền lực trong giới lãnh đạo cấp cao và Trung ương Đảng. Nhờ thế, họ
đã có thể ngăn
cản các chiến dịch chống tham nhũng của tổng bí thư đảng, ông Nguyễn Phú Trọng,
và cứu nguy cho thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khỏi bị lật đổ.
Đồng
thời với việc chống cải cách, các nhóm lợi ích cũng đủ mềm dẻo để tác động lên chế
độ cho phù hợp với lợi ích của họ. Tham vọng chính trị và sự ganh đua nội bộ sẽ
là những yếu tố khó tiên đoán nhất trong thời gian trước Đại hội Đảng 12 và
trong những năm tới.